Pages

LOVIE – Bước đột phá mới cho nền tảng thương mại điện tử Việt Nam B2B, B2C

Lovie khát khao mang tới những sản phẩm thương hiệu Việt chất lượng cao, dịch vụ chuyên nghiệp, đẳng cấp với những tính năng vượt trội.

TPP: Thách thức với các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Với 96% trên tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là DN nhỏ và siêu nhỏ, Việt Nam đang đứng trước thách thức rất lớn về khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập.

Tổng quan quá trình xây dựng thương hiệu Việt Nam

Ngày nay, nếu bạn xây dựng một thương hiệu tốt, thế giới sẽ biết đến và trả lời nó.

Lovie – Miền đất hứa cho các lập trình viên, nhà thiết kế, video makers và các thương hiệu Việt

Lovie.vn mang đến một môi trường năng động và hấp dẫn cho sự phát triển công nghệ, kỹ thuật ở Việt Nam mang tên Lovie Challenge

50 thương hiệu hàng đầu Việt Nam có giá trị chỉ bằng ½ một thương hiệu Malaysia

Chúng ta không cạnh tranh được với các thương hiệu toàn cầu. Khi thương hiệu toàn cầu vào Việt Nam, việc giữ miếng bánh thị phần của doanh nghiệp Việt sẽ khó khăn hơn nhiều

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

Từ thương hiệu quốc gia đến thương hiệu quốc tế

Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, tất cả các công ty đều muốn thương hiệu của mình hướng ra thị trường thế giới để theo kịp xu hướng hội nhập… Vấn đề đặt ra cho các thương hiệu muốn vào sân chơi quốc tế là: Công ty sẽ phát triển thương hiệu đến mức nào? Công ty có toàn cầu hoá phân khúc thị trường và thậm chí cả bản thân sản phẩm không? Trên thực tế mặc dù không ai có thể phủ nhận rằng một thương hiệu nhất quán trên tất cả các thị trường sẽ có rất nhiều lợi thế, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần cân nhắc xung quanh việc lựa chọn và áp dụng chiến lược thương hiệuMặc dù các công ty đều lựa chọn theo xu hướng toàn cầu hoá  thương hiệu của mình nhưng không có nghĩa là các khía cạnh của một thương hiệu đều phải được tiêu chuẩn hoá như nhau ở mọi quốc gia. Triết lý ở đây là”Think Globally , Act Locally”.
thương hiệu quốc gia, thương hiệu việt, lovie, thương-hiệu-quốc gia, thương-hiệu-việt
Các thương hiệu quốc tế thường được xây dựng dựa trên 4 nhóm quan điểm:
Nhóm thứ nhất có quan điểm thay đổi càng ít các khía cạnh của thương hiệu càng tốt. Họ xem một thương hiệu mạnh phải là một thương hiệu nhất quán ở bất cứ nơi đâu. Mọi thứ cần phải được đồng nhất, ngoại trừ các quyết định mang tính chiến thuật (tiếp thị trực tiếp tại địa phương và những chiến dịch quảng cáo truyền thông). Kiểu toàn cầu hoá này thường đại diện cho thị trường hàng hoá cao cấp, lĩnh vực làm đẹp và thời trang.
Nhóm thứ hai lại chọn việc thích ứng một cách tối đa các vấn đề về Marketing hỗn hợp. Công ty sẽ thử nghiệm phát triển một chiến dịch Marketing thương hiệu ở một số quốc gia, để xác định khả năng của sản phẩm đó ở thị trường trong nước trước khi đưa ra toàn cầu. Ngành công nghiệp xe hơi tiêu biểu cho loại hình này . Đây là kiểu “Toàn cầu - địa phương”. Khái niệm về quảng cáo toàn cầu có thể giống nhau, song mọi chi tiết là khác nhau để phù hợp với sự khác biệt của từng địa phương.
Nhóm thứ ba là nhóm có tư tưởng toàn cầu hoá ít nhất. Ngược lại với sự mở rộng toàn cầu, nhiều công ty đa quốc gia đã theo đuổi chính sách “đa địa phương “, theo đó ưu tiên theo đuổi xu hướng tiêu dùng cụ thể ở từng thị trường quốc gia. Không chỉ khác nhau về thương hiệu, giá cả và định vị thương hiệu, mà nó còn được hỗ trợ bởi những chiến dịch quảng cáo riêng biệtKiểu này phổ biến trong các lĩnh vực sản xuất thực phẩm và các thương hiệu hàng tiêu dùng. Nhưng đây là kiểu cổ điển. Những loại sản phẩm hàng tiêu dùng mới đang có xu hướng được tung ra trên toàn khu vực và kể cả toàn cầu (như các sản phẩm đứng đầu thế giới của P&G)
Nhóm thứ tư  gồm các thương hiệu mà thị trường của chúng được quyết định bởi cấu trúc bán hàng và phân phối. Do sự khác nhau rất lớn giữa hệ thống phân phối ở các nước khác nhau dẫn đến khả năng toàn cầu hoá của thương hiệu này rất hạn chế. Ví dụ như các ngành sản xuất đồ gia dụng (đầu hifi, video camera).
Có một điều đáng quan tâm là, những thương hiệu hàng đầu thế giới lại ít xuất hiện trong nhóm đầu tiên. Việc đánh giá được căn cứ vào số quốc gia mà thương hiệu đó có mặt và thị phần tương ứng của chúng. Những thương hiệu mạnh nhất phần nhiều nằm trong nhóm thứ hai. Họ “tư duy một cách toàn cầu và hành động phù hợp với từng địa phương cụ thể”. Coca Cola là đại diện nổi bật cho nhóm này. McDonald’s cũng đã từng bước đổi sang địa phương hoá để phù hợp với khẩu vị và phong cách ăn uống của địa phương, khi nó bắt đầu xâm nhập vào thị trường lớn nhất thế giới – thị trường Trung Quốc.
thương hiệu quốc gia, thương hiệu việt, lovie, thương-hiệu-quốc gia, thương-hiệu-việt

Sự mở rộng hoạt động kinh doanh trên bình diện quốc tế cần phải được xem xét dựa vào sự lớn mạnh của thương hiệu cũng như khả năng chinh phục những thị trường mới, và nhờ đó duy trì lợi thế cạnh tranh về qui mô cũng như về sản lượng. Thông qua quá trình kiểm tra và đánh giá thương hiệu của công ty  và từng thị trường mà công ty nhắm tới, nhà quản trị thương hiệu sẽ có chiến lược phát triển thương hiệu và mở rộng thị trường một cách hợp lý nhẩt. Tuy nhiên, việc đem một thương hiệu ở quốc gia này sang áp dụng ở quốc gia khác, có những sự khác biệt lớn về địa lý, kinh tế và đặc biệt là văn hoá, đòi hỏi công ty phải quản lý một cách thận trọng và cân nhắc trước các yếu tố này.

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2015

Mỹ có Apple, Nhật có Sony, Ý có Gucci, Việt Nam có gì?

Nói đến Mỹ là nói đến tính Sáng tạo, dịch vụ tốt; nói đến Ý là nói đến sự Xa xỉ, Phong cách. Còn nói đến Việt Nam, tôi chỉ nghĩ đến tính Truyền thống như nón bài thơ, áo dài... – sếp công ty định giá thương hiệu Brand Finance cho biết.
TPP, Lovie, thương hiệu Việt, cơ hội, thách thức, doanh nghiệp việt, hội nhập, thuong-hieu Viet, co-hoi, thach-thuc, doanh-nghiep-viet, hoi-nhap

 “Chúng ta biết gì về Ba Lan?”, ông Samir Dixit – Giám đốc Vùng Châu Á – Thái Bình Dương của công ty định giá thương hiệu Brand Finance bắt đầu câu chuyện của mình khi nói về thương hiệu quốc gia tại sự kiện Vietnam Brand Matters.

“Các bạn có biết sản phẩm nào của Ba Lan? Có thể nêu tên một nhà sản xuất phim, một nhà văn, một nhà soạn nhạc? Ai là người Ba Lan nổi tiếng nhất thế giới? Bạn có định đến thăm Ba Lan?...”

Số khách dự hội thảo đó ước tính là 500 người, tất cả đều im lặng.

“Một đất nước nằm kề Đức, có diện tích tương đương Pháp, Tây Ban Nha hoặc Vương quốc Anh, một đất nước có 40 triệu dân, và các bạn hoàn toàn không biết gì về nó”, ông Samir nhận định.

Vậy thế giới biết gì về Việt Nam?

Theo đánh giá của Brand Finance, nói đến Mỹ là nói đến tính Sáng tạo, Dịch vụ tốt, Tham vọng, và người ta có thể kể một loạt thương hiệu của Mỹ như Nike, Apple, Ford, Mc Donald...

Nói đến Ý là nói đến sự Xa xỉ, Phong cách, đầy Cảm hứng. Các thương hiệu có thể kể đến là Gucci, Prada, Ferrari...

Nhật Bản đại diện cho Chất lượng, sự Tôn trọng, tỉ mỉ từng Chi tiết. Đại diện của Nhật Bản là Toyota, Sony, Honda, Canon...

Việt Nam có gì đặc biệt, có gì xuất sắc, khác biệt để khi nói đến một thương hiệu nào đó người ta nghĩ ngay đến Việt Nam?

“Nói đến Việt Nam, tôi chỉ nghĩ đến nón bài thơ, áo dài... Nhắc đến doanh nghiệp Việt thì tôi nghĩ đến Trung Nguyên, Vietnam Airlines, và... Marou – một thương hiệu chocolate sản xuất ở Việt Nam”, ông Samir cho hay.

Thương hiệu càng thấp, hội nhập càng yếu

Để mua lại chỉ một cái tên Apple, người mua sẽ phải bỏ ra hơn 128 tỷ USD, tức gấp đôi số tiền bỏ ra mua thương hiệu của tất cả các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam.

“Chúng ta đang sống trong một nền kinh tế của ý tưởng, một nền kinh tế của tài sản vô hình. Tài sản vô hình là giá trị lớn nhất một công ty có”, ông Samir cho biết.
TPP, Lovie, thương hiệu Việt, cơ hội, thách thức, doanh nghiệp việt, hội nhập, thuong-hieu Viet, co-hoi, thach-thuc, doanh-nghiep-viet, hoi-nhap

Biểu đồ đo lường giá trị kinh tế của các quốc gia trên đây cho thấy tỷ lệ tài sản vô hình của các doanh nghiệp trên toàn cầu ở mức 53%. Điều này có nghĩa những con số hiện hữu trong bảng tài chính kế toán của các doanh nghiệp chỉ có giá trị 47%.

Nhưng rất tiếc, ở Việt Nam, tài sản vô hình chiếm tỷ lệ chưa được một nửa.

“Thương hiệu giúp chúng ta rất nhiều khi gặp việc không may, hoặc có thể có lãi suất vay ngân hàng tốt hơn, sử dụng nhân sự giỏi hơn, xuất hiện nhiều hơn trên truyền thông... Tất cả những điều đó sẽ tác động đến doanh số, biên lợi nhuận, chi phí hoạt động...”, ông Samir nói.

Giá trị thương hiệu của Việt Nam năm 2015 đã giảm 18% so với giá trị năm 2014. Danh sách Top 500 thương hiệu lớn nhất toàn cầu không có một thương hiệu nào đến từ Việt Nam.

Bên cạnh đó, theo phân tích của ông Nguyễn Đình Toàn - Giám đốc Marketing của Công ty Masan Beverage chuyên ngành hàng đồ uống của Tập đoàn Masan, trong khi các công ty quốc tế hướng đến các khoản đầu tư bền vững với mục tiêu và tầm nhìn dài hạn, thì các doanh nghiệp Việt Nam chỉ vạch ra mục tiêu với tầm nhìn ngắn hạn. Trong khi các công ty toàn cầu lấy thương hiệu làm chính yếu thì doanh nghiệp Việt đang lấy tình hình kinh doanh làm định hướng.

“Thương hiệu mạnh mang lại một giá trị cạnh tranh cực lớn, có khả năng ngăn các đối thủ cạnh tranh bước vào thị trường của bạn”, ông Toàn nhấn mạnh.

Việc thiếu năng lực quản lý thương hiệu sẽ hạn chế Việt Nam tận dụng được các lợi thế trong kinh doanh.
TPP, Lovie, thương hiệu Việt, cơ hội, thách thức, doanh nghiệp việt, hội nhập, thuong-hieu Viet, co-hoi, thach-thuc, doanh-nghiep-viet, hoi-nhap

Với tình hình này, ông Samir nhận định: Doanh nghiệp Việt rất khó cạnh tranh được với các thương hiệu toàn cầu. Khi thương hiệu toàn cầu vào Việt Nam, việc giữ miếng bánh thị phần của doanh nghiệp Việt sẽ khó khăn hơn nhiều.

“Khi Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực, nước nào có thương hiệu yếu sẽ là nước bị thiệt hại”, ông Samir nhìn nhận.

Việc các thương hiệu nước ngoài nhảy vào Việt Nam sẽ kéo dài khoảng cách thị phần giữa các thương hiệu có độ nhận biết cao và các thương hiệu không có độ nhận biết.

Một điều may mắn là “giá trị tiềm ẩn” của Việt Nam gần như tương đồng với mức trung bình của thế giới. Điều này có nghĩa là cũng như các quốc gia ASEAN khác, Việt Nam có một tiềm năng kinh tế rất lớn chưa được khai phá. Nhưng, Việt Nam sẽ không đạt được một vị thế cạnh tranh tốt nếu các quốc gia khác tìm ra cách tận dụng được “giá trị tiềm ẩn” trước Việt Nam.


Một thực tế cần nhìn nhận là Việt Nam là một nước có ít lợi thế thương mại và tài sản vô hình đã được khai thác (trừ lợi thế thương mại) nhất trong khối các nước ASEAN. Giá trị kinh tế của Việt Nam sẽ được tăng cường nếu Việt Nam có thể chuyển hóa phần nào các “giá trị tiềm ẩn” thành lợi thế thương mại và các tài sản vô hình đã được khai thác.